Thắng cảnh di tích chùa núi Tà Cú nằm ở vị trí đầu mối các tuyến đường giao thông: Từ thành phố Hồ Chí Minh ra hoặc từ Vũng Tàu đi qua suối nước nóng Bình Châu, Dinh Thầy Thím, Mũi Điện Khe Gà … rất thuận lợi cho lộ trình hành hương và những lữ hành sinh thái.Từ thành phố Hồ Chí Minh dọc theo quốc lộ 1A vượt một đoạn đường khoảng 170km và dừng ở cây số 28 tính từ Phan Thiết vào có con đường rẽ về hướng biển chừng hơn 2 km là đến chân núi Tà Cú, một địa danh gắn liền với di tích lịch sử văn hóa Chùa Linh Sơn Trường Thọ mang đậm sắc cổ kính, nằm giữa khung cảnh rừng núi chập chùng lẫn khuất bóng mây. Du khách sẽ ngỡ ngàng khi đứng trước cảnh chùa cổ kính, tượng Phật trầm tư và dấu thiêng của Tổ sư từ buổi khai sơn cách đây trên 130 năm.
Công ty Cổ phần Du lịch núi Tà Cú
Địa chỉ: Km 28, Thị trấn Thuận Nam, Hàm Thuận Nam, Bình Thuận
Điên thoại: 062 3867484 – 3869337 – 3869109
Fax: 062 3869112 – 3670754
Khách hành hương đi Chùa núi không những thành tâm lễ Phật, lạy Tổ mà còn là dịp đắm mình trong cảnh quan thiên nhiên tuyệt mỹ để thấy lòng thanh thản an nhiên.
Nếu ngồi trên Cabin cáp treo có thể nhìn thấy toàn cảnh của gần nửa phía núi. Bên dưới là thị trấn Thuận Nam ôm trong lòng con đường quốc lộ 1A với xe cộ rộn ràng và những vườn thanh long trái chín đỏ được trồng thành từng hàng thẳng tắp. Xa xa là ngọn hải đăng Kê Gà in lên nền biển xanh mênh mông. Cabin đưa khách nhẹ nhàng lướt trên những ngọn cây cổ thụ, có lúc xuyên qua những đám mây bay còn ẩm lạnh hơi sương để tưởng mình đang ở giữa cảnh tiên bồng.
Nếu bằng đường bộ lên núi phải leo hàng ngàn bậc đá quanh co, luồn qua truông lá đại ngàn mới đến chùa Long Đoàn và chùa Tổ. Khu vực chùa Linh Sơn Trường Thọ nằm lưng chừng núi ở độ cao 420m so với mặt nước biển, hài hòa với bức tranh thiên nhiên được kết bằng những tảng đá, khe suối, cây rừng trầm lặng trước pho tượng phật nằm giữa song lâm thị tịch. Đứng dưới bóng đại thụ ngàn năm nhìn về hướng đông có thể thấy cả đảo nhỏ Hòn Bà ở La Gi giữa biển mênh mông.
Núi Tà Cú là rừng bảo tồn thiên nhiên quốc gia có thảm động thực vật phong phú với hơn chục loài quý hiếm có tên trong sách đỏ của thế giới như thằn lằn đá Gekko takouensis sp. nov. Ngô & Gamble, thằn lằn chân ngón Cyrtodactylus takouensis Ngô & Bauer, gà gô, diều núi, voọc bạc Trường Sơn, chà vá chân đen… các loại cây quý như Afzelia xylocarpa, Irvingia malayana…và trên 150 loại cây thuốc. Cứ mỗi độ xuân về hoa mai vàng, hoa vông đỏ nở thơm nức cả cánh rừng, triền núi có nhiều dòng suối tuôn nước trong ngần như vắt ra từ tảng đá và vị ngọt lịm của nước làm cho khách hành hương cứ tưởng là được uống nước Cam lồ trong truyền thuyết.
Đường lên chùa núi dài hơn 2500m, qua nhiều chặng dốc cao với nhiều địa danh rất ấn tượng. Chặng đầu có Đá Bàn Hạ rồi Đá Bàn Thượng và có người gọi là Đá Ông Địa, cạnh đó có dòng suối chảy róc rách len dưới chân tảng đá lớn thờ Thổ thần. Càng lên cao dốc càng gắt cũng là lúc gặp Dốc Bằng Lăng bởi quanh đây có nhiều Cây Bằng lăng, hoa nở tím ngắt một góc rừng, tiếp đến là Dốc Yên Ngựa với một khối đá lớn mặt phẳng như bộ phản nằm nghiêng bên khe suối có tên gọi là Giếng tiên gợi cho du khách hành hương hình dung được một bàn cờ của các vị tiên chưa tàn cuộc còn lưu dấu.
Quần thể Chùa Núi được hình thành dựa theo thế núi nên có Chùa Trên, chùa Dưới đều quay mặt về hướng đông nam. Với đặc trưng kiến trúc chùa theo phái Bắc Tông thường thấy dù qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được nét riêng cổ kính với mái cong lợp ngói, lưỡng long chầu nguyệt đã nhuốm dày bao lớp rêu phong tồn tại với thời gian. Các chú chuẩn đề ở vòng linh phù được chạm khắc trên vách đá sau chùa Tổ mới thấy phần nào dấu tích của phái mật tông, nói lên một thời các bậc cao tăng đại lão đã tu luyện phép thuật làm phương tiện tu chứng nhằm đạt hai chữ Chơn – Không.
Cảnh tịnh độ nhân gian với ba pho tượng Phật Di Đà (7m) Quan Thế Âm và Đại Thế Chí (6,5m) hiện nay là một trong bảy cấp của cảnh tịnh độ đạo tràng theo Quán kinh và Kinh Di Đà do sư trụ trì Thích Vĩnh Thọ phác thảo từ năm 1960. màu vôi trắng toát của các pho tượng nổi lên giữa màu xanh cây rừng tạo nên cảnh hùng vĩ siêu nhiên. Ban sớm có những đám sương mù bao phủ như trộn lẫn vào lớp đá hoa cương đang phiêu bồng giữa thực và mộng.
Vị trí trung tâm chùa Linh Sơn Trường Thọ gồm chùa trên, Chùa Tổ. Chùa xây dựng từ khoảng năm 1870 – 1880 do sư tổ Hữu Đức và các chư hậu tổ tiếp tục trùng tu. Quy mô cấu trúc chùa Tổ có ba gian: Giữa là chánh điện thờ Phật, bên tả là nhà giám tự, bên hữu là nơi thờ tổ Hữu Đức. Có trên một trăm bậc đá tam cấp rêu phong ngược dốc từ cổng tam quan lên chùa Tổ làm nổi bật vị thế tôn nghiêm, mái chùa điểm xuyết lên bầu trời xanh lồng lộng, đặc trưng nghệ thuật kiến trúc Phật giáo mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn.Ở triền núi hướng đông của chùa Tổ là chùa Long Đoàn được sư Tâm Tố hiệu Viên Minh tạo dựng sau khi tổ Hữu Đức viên tịch. Lối kiến trúc pha với phong cách hiện đại những nóc chùa hình tháp, mái ngói âm dương được hài hòa thanh thoát. Ngôi chánh điện với những bức tường xây bằng đá chẻ trong rất bề thế giữa khu đất rộng có nhiều cây ăn trái lưu niên tạo nên một màu xanh sinh thái tự nhiên hài hòa với cảnh sắc núi rừng. Trong khuôn viên chùa có tháp mộ Tổ và các chư hậu Tổ. Chuyện kể rằng trước khi Tổ Hữu Đức sắp viên tịch có một đệ tử là sư cô Thái Thị Tràng nhờ chuyên tâm tu niệm, khắc kỹ tu thân đã tiên tri được nên chất củi thiêu mình thoát hóa trước Tổ. Lại có chuyện, sau khi Tổ viên tịch Bạch hổ lâu năm theo hầu cũng về phủ phục bên mộ Tổ buồn rầu chẳng hề ăn uống và mấy hôm sau chết bên tháp. Do vậy mà bên cạnh tháp có một nắm mộ Bạch hổ do nhà chùa mai táng.
Tổng thể di tích Linh Sơn Trường Thọ Tự không thể tách rời những kiến trúc tượng Phật, tháp mộ, miếu thờ, ao thất bảo được xây dựng sau này. Công trình mang tính đồ sộ và độc đáo nhất là pho tượng phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn dài 49m cao 11m với tư thế nằm nghiêng, lưng tựa vào vách núi, gối đầu lên tay. Khởi công xây dựng từ năm 1962 và gần 4 năm sau mới hoàn thành. Đến nay vẫn có những thắc mắc không hiểu sao lúc bấy giờ nơi thâm sơn cùng cốc, đường lên hiểm trở mà chỉ bằng sức lực con người lại có thể chuyển hàng ngàn tấn sắt, thép, xi măng làm nên kỳ công đó?
Phía chân tượng phật nằm, ven bãi đá ngổn ngang mọc đầy những cây thuốc ngũ gia bì, chuối đá … có một hang đá, cửa vào rất hẹp chỉ đủ một người. Lối vào trong có tảng đá bằng phẳng là nơi Tổ thiền tịch nay trở thành chỗ thờ, bước chân đầu tiên vào buổi khai sơn Tổ đã coi nơi này là “Như lai tịch thất”. Vào sâu nữa bằng con đường đầy ngóc ngách, bóng tối âm u trong lòng đá như vô tận. Lối đi càng sâu càng thấy trút dần, gặp nhiều ngả, nhiều vực thăm thẳm và hơi lạnh từ đá xông lên. Người đi thám hiểm vào hang sâu thường thắp nhang cắm dọc lối đã qua để định hướng quay về. Tiếng nước chảy róc rách từ khe đá vang vọng chân ngôn huyền bí khó mà diễn đạt bằng ngôn ngữ thế gian. Có người kể, ngày xưa quăng vào hang một trái bưởi hoặc quả dừa nếu đánh dấu thì những ngày sau sẽ gặp trôi trên biển Khe Gà … Những chuyện mang vẻ kỳ bí và linh diệu về hang Tổ đến nay vẫn nằm trong tâm hưởng của người mộ đạo.
Tà Cú với tiềm năng đa dạng được thiên nhiên ưu đãi, rồi nhất tiếng Linh Sơn từ rất xa xưa, gắn với những ngày khổ hạnh tu luyện của Tổ Hữu Đức. Ngưỡng mộ trước những di tích mang đậm bản sắc tín ngưỡng trong bối cảnh thiên nhiên đầy quyến rũ, hẳn khách thập phương sẽ thầm nghĩ không biết từ cơ duyên nào Tổ sư Trần Hữu Đức đã vượt ngàn trùng để rồi dừng chân nơi này. Đất có linh, núi có thiêng cũng phải có một sức mạnh vô hình khơi dậy sự màu nhiệm mới đáp ứng nỗi khao khát của tư tưởng con người. Giá trị siêu phàm của pháp thuật (SIDDHI) mà thiền sư Hữu Đức dày công khổ luyện ở chỗ biến năng lực tự phát của tâm hồn như dòng nước xoáy trở thành hồ gương phẳng lặng phản chiếu hình ảnh thế gian bởi ngài thấu triệt tinh thần mật tông đích thực để trở thành bậc đại trí nguyện độ chúng sanh.
Nguyên quán Tổ ở làng Bạc Má, quận Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên (nay là huyện Tuy An, Phú Yên) và sinh ra trong một gia đình quý tộc. Thân phụ ngài Trần Thái Công, thân mẫu bà Nguyễn Thị Từ là những bậc hiền đức từ tâm. Tổ với tục danh Trần Hữu Đức sinh vào giờ Tý, ngày mùng 8 tháng 2 năm nhâm Thân thời Gia Long thứ 11 (tức năm 1812).
Thời thơ ấu, ngài đã phát lộ tư chất thông minh lạ thường. Trong các bữa cơm chỉ một ít có mùi cá thịt là ngài không bao giờ đụng đến. Những suy nghĩ đầy trí tuệ, nhân hậu đến người lớn tuổi cũng phải trầm trồ thán phục. Năm lên 10 tuổi, ngài được song thân cho theo thầy học tập. Với trí khôn trời phú, đức tính hiền từ, ngài sớm am tường thi lễ. Vào năm 17 tuổi, song thân lần lượt qua đời, sau 5 năm lo việc cư tang báo đề chữ hiếu, ngài quyết chí rời mái ấm, từ bỏ sản nghiệp của gia đình xuôi vào nam tìm đường tu tập. Tuy còn trẻ nhưng ngài sớm nhận ra nỗi trầm luân, cảnh bi thương sinh ly tử biệt của kiếp người luôn đọng lại trong tâm tưởng cùng hoàn cảnh xã hội đương thời bao chuyện nhiễu nhương đã thôi thúc ngài thực hiện ý nguyện thoát tục để bắt đầu hành trình đạo pháp từ đó.
Trên mảng thuyền nan lướt sóng theo mùa gió suốt 3 ngày liền, thiền sư Hữu Đức cập bến Phan Thiết, tìm đến chùa Phước Hưng bái yết sư trụ trì là ngài Trí Chất đại sư xin thọ giáo. Thiền sư Hữu Đức nói lên lòng phát nguyện xuất gia cầu học diệu pháp của Như Lai, coi đó là con đường cứu độ lấy bản thân và phổ hóa cho mọi người hầu đền trả ơn dày nghĩa nặng của song thân. Thiền sư Hữu Đức được nhận làm môn đồ và đặt pháp danh là Thông Ân. Từ đây ngài hết dạ chuyên tâm tu học, tròn việc ở cửa thiền môn tịnh thất. Ngài tập trung vào việc dồi mài kinh điển, giữ nghiêm giới luật suốt 13 năm trời không bao giờ tỏ ra xao lãng. Sau đó bổn sư trụ trì tịch, ngài lo xong việc cư tang lại ra đi tìm nơi thanh tịnh để suy nghiệm với hoài bão đạt được cội phúc vô ưu, giải thoát kiếp người. Rời chùa Phước Hưng ngài đến làng Kim Thạnh, xứ Bầu Trâm (nay thuộc xã Hàm Minh – Hàm Thuận Nam) dựng nên ngôi thảo am vừa tu thiền , vừa bốc thuốc tế độ dân làng. Tiếng đồn về đức trọng tài cao của vị thiền sư trẻ (lúc ấy ở tuổi 31) lan dần khắp nơi gần xa. Dân làng góp nhau dựng lập ngôi chùa là Kim Quang tự để sư Hữu Đức hành đạo.
Sau 30 năm, sư Hữu Đức nghĩ đến bước đường hoằng pháp lợi sanh không đành tự tại. May duyên lành lại đến, Hòa thượng Bữu Tạng người cùng quê trên đường đi hóa đạo ghé ngang xứ Bầu Trâm, nhà sư Thông Ân được tin liền đến lãnh lễ cung thỉnh hòa thượng về chùa và được truyền đại giới (250 giới). Thấy đường tu tập là phải ẩn mình, có nơi tịnh niệm, sư Hữu Đức lại ra đi. Đến một nơi có tên gọi là Bầu Siêu, mà theo dân địa phương nói có lúc ngài còn tu trong gộp đá trên bờ biển Khe Gà. Không lâu sau, thiện nam tín nữ được tin lại kéo đến xin thọ giáo ngày càng đông, nhưng với tuổi đời đã cao mà tâm nguyện tu tịnh chưa thành nên ngài lặng lẽ băng ngàn lên núi Tà Cú. Nơi đây rừng thiêng nước độc đầy thú dữ không dấu chân người. Sư Hữu Đức đến được Đá bàn Hạ rồi tiếp tục lên Đá Bàn Thượng tạm dừng chân làm nơi khổ luyện. Chỉ được mấy tháng, ngài lại đưa mình lên tận núi cao rồi chọn được một hang đá sâu thẳm, cạnh gốc cây đại thụ vừa tĩnh lặng vừa bí ẩn làm tịnh thất tọa thiền.
Giữa hoàn cảnh núi cao, khí hậu khắc nghiệt, cách biệt với dân cư thì tổ sư sẽ sống ra sao? Điều này đã được lý giải từ những môn đồ kế tục. Nhờ pháp thuật cao siêu mà tổ thuộc dòng Lâm tế chính tông thứ 40 đạt được sức mạnh chuyển hóa vạn vật xung quanh. Pháp thuật SIDDHI mà Tổ tu luyện có khả năng biến tư tưởng (MANAS) hạ tiện thành bảo vật, biến than thành kim cương sáng chói, biến thuốc độc thành thuốc trường sinh (nói theo Govinda trong les Fondements de La Mystique tibétaine) .
Biết bao huyền thoại về tổ Hữu Đức suốt 16 năm khai sơn với sự nhiệm màu của trí tuệ, đại hùng:
Theo nhiều người truyền tụng có một bạch hổ luôn phủ phục bên hang tổ, quấn quýt theo chân tổ bất cứ đâu. Mãi cho đến ngày Tổ tịch thì cũng chết theo. Trên cánh rừng chùa núi có cặp chim Hồng hoàng cao cát với bộ lông rất đẹp, xuất hiện từ khi có Tổ. Tiếng chim hót lên cũng là báo hiệu có khách thập phương dưới núi sắp lên rồi bay lượn dẫn đường không sai một bước.
Bữa ăn hàng ngày của Tổ là lá rừng ở vách núi bên hang, nước uống lấy từ khe đá trong hang. Có người kể về sự linh ứng của tổ còn đến sau này, đó là khi xây dựng pho tượng phật nằm dài 49m, nhu cầu vận chuyển sắt, thép, xi măng lên núi rất khó khăn trong khi khối lượng cát xây phải cần đến gấp chục lần, lại giữa địa hình sườn núi đá phủ kín mà không phải đưa từ dưới núi lên. Trước ngày thi công, tùy theo thời gian của thợ hồ, sư trụ trì lúc ấy cho trữ nước dùng vào các mái chứa rồi bịt kín các lỗ mạch nổi đã trào ra những đụn cát nhuyễn dùng được cho công trình.
Vào năm Tự Đức thứ 33 (1880), Hoàng Thái Hậu là bà Từ Dũ lâm trọng bệnh, hai mắt mù lòa. Các ngự y tài giỏi danh tiếng trong triều đều bất lực, nhà vua kêu gọi thần dân khắp cả nước ai cứu được mẫu hậu sẽ trọng thưởng. Được biết về danh đức, pháp thuật của tổ từ lâu, quan thủ hiến đầu tỉnh Bình Thuận lập tức viết biểu tâu lên vua. Vua Tự Đức hạ chiếu sai sứ mang dâng, xin rước tổ về triều chữa bệnh cho Hoàng Thái Hậu. Vì đã nguyện không bao giờ xuống núi nữa, không thể về triều theo chiếu chỉ của vua, tổ trao cho sứ thần các chú chuẩn đề cùng thảo dược và cách sử dụng. Quả là linh nghiệm, sau khi uống hết các chú chuẩn đề và thuốc, Hoàng Thái Hậu vượt qua căn bệnh hiểm nghèo, nhanh chóng bình phục là điều không ai tưởng đến. Vua Tự Đức tỏ lòng khâm phục và ban sắc phong cho ngôi chùa bốn chữ “Linh Sơn Trường Thọ”.
Đại lão hòa thượng tổ sư Trần Hữu Đức viên tich vào ngày mùng 5 tháng 10 năm Đinh Hợi (1887) thọ 76 tuổi, tăng lạp 53. Tổ biết trước ngày hóa thân của mình nên họp đồ chúng báo việc phó chức cho đệ tử thay Tổ trông nom chùa, tiếp dẫn hậu lai.
Công ty Cổ phần Du lịch núi Tà Cú
Địa chỉ: Km 28, Thị trấn Thuận Nam, Hàm Thuận Nam, Bình Thuận
Điên thoại: 062 3867484 – 3869337 – 3869109
Fax: 062 3869112 – 3670754
chia sẻ ảnh đẹp check in
Tin bài liên quan khác
KHÁCH SẠN TIÊU BIỂU
Tin khuyến mại
TOP ĐIỂM ĐẾN
KHÁCH SẠN GIỚI THIỆU
Khách sạn Việt Nam được hotel84.com quảng bá và cung cấp dịch vụ tìm kiếm khách sạn giá tốt nhất, thông tin về các Khach san cho chuyến công tác hay kỳ nghỉ thú vị đầy kỷ niệm của du khách.